CHÍNH TRỊ: BÀI 4 BẢN CHẤT CÁC GIAI ĐOẠN PHÁT TRIỂN CỦA CHỦ NGHĨA TƯ BẢN

BÀI 4

BẢN CHẤT CÁC GIAI ĐOẠN PHÁT TRIỂN
CỦA CHỦ NGHĨA TƯ BẢN

 

  1. SỰ HÌNH THÀNH CHỦ NGHĨA TƯ BẢN
  2. Những tiền đề hình thành và vai trò của chủ nghĩa tư bản
  • Những tiền đề hình thành của chủ nghĩa tư bản

Vào thế kỷ XVI, trong lòng chế độ phong kiến ở Tây Âu đã hình thành những tiền đề kinh tế-xã hội và tư tưởng cho sự ra đời của chủ nghĩa tư bản.

  1. Tiền đề kinh tế: Chủ nghĩa tư bản ra đời trên cơ sở nền sản xuất hàng hoá phát triển

Từ thế kỷ XVI, ở nhiều nước phong kiến Tây Âu đã diễn ra mạnh mẽ quá trình sản xuất hàng hóa. Sản xuất hàng hoá là một kiểu tổ chức kinh tế mà ở đó sản phẩm được sản xuất ra để bán trên thị trường.

Sản xuất hàng hoá ra đời dựa trên hai điều kiện:

Một là, có sự phân công lao động xã hội với sự chuyên môn hóa cao hơn, nhu cầu tiêu dùng phong phú, việc trao đổi sản phẩm ra đời.

Hai là, có chế độ tư hữu hoặc các hình thức sở hữu khác nhau về tư liệu sản xuất làm cho người sản xuất độc lập, tự quyết định và có quyền trao đổi sản phẩm.

Sản xuất hàng hoá có ưu điểm là thúc đẩy cải tiến kỹ thuật, tăng năng suất lao động xã hội, tạo ra nhiều sản phẩm đáp ứng nhu cầu xã hội, đẩy mạnh quá trình xã hội hóa sản xuất, thúc đẩy phân công lao động, chuyên môn hóa sản xuất, từ đó, đẩy nhanh quá trình tích tụ và tập trung sản xuất tư bản.

Trong quá trình phát triển, hình tức tổ chức sản xuất kiểu phường hội phong kiến đã không theo kịp yêu cầu của sản xuất. Hình thức quản lý sản xuất mới là công xưởng thủ công tập trung và phân tán ra đời để đáp ứng yêu cầu sản xuất hàng hóa. Yêu cầu nguyên liệu, lương thực, thực phẩm của thành thị và các công xưởng thủ công ngày càng lớn, càng thúc đẩy sản xuất nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hóa. Các hình thức trang trại nông nghiệp hình thành.

Hàng hóa là sản phẩm do kết quả lao động của con người và nó có thể thỏa mãn nhu cầu nào đó của con người thông qua trao đổi. Hàng hóa có hai thuộc tính là giá trị hàng hóa và giá trị sử dụng. Giá trị sử dụng là công dụng của vật phẩm có thể thỏa mãn nhu cầu của con người. Giá trị của hàng hóa là lao động xã hội cần thiết của con người sản xuất kết tinh trong hàng hóa. Do có sự khác biệt nhau về trình độ, điều kiện sản xuất, công cụ lao động nên hao phí sức lao động để sản xuất ra hàng hóa của mỗi người cũng khác nhau, do đó giá trị cá biệt của hàng hóa của mỗi người cũng không giống nhau. Do vậy khi trao đổi phải theo một giá trị chung, đó là giá trị xã hội của hàng hóa. Giá trị xã hội của hàng hoá do thời gian lao động xã hội cần thiết tạo ra hàng hóa quyết định.

Thời gian lao động xã hội cần thiết là thời gian đủ để sản xuất ra một hàng hóa trong điều kiện bình thường, với trình độ lao động thành thạo, cường độ lao động trung bình của xã hội. Giá trị của hàng hóa biểu thị quan hệ xã hội giữa những người sản xuất hàng hoá, là khái niệm trừu tượng, không nhìn thấy được và chỉ bộc lộ ra khi trao đổi.

Trong giai đoạn đầu của nhân loại, con người trao đổi trực tiếp vật này lấy vật khác. Quá trình lịch sử lâu dài của lưu thông hàng hóa, người ta đã tìm thấy bạc, vàng là kim loại quý, dễ phân nhỏ dễ bảo quản để làm vật ngang giá chung. Từ đó tiền tệ ra đời. Tiền tệ là một thứ hàng hóa đặc biệt được tách ra làm vật ngang giá chung cho các loại hàng hóa khác. Nó thể hiện lao động xã hội và biểu hiện quan hệ giữa những người sản xuất hàng hóa. Tiền là thước đo giá trị, là phương tiện lưu thông, cất trữ và thanh toán.

Quy luật kinh tế cơ bản của sản xuất hàng hóa là quy luật giá trị. Nó đòi hỏi sản xuất và trao đổi phải dựa trên cơ sở hao phí lao động xã hội cần thiết. Quy luật giá trị có tác dụng điều tiết sản xuất và lưu thông hàng hóa; kích thích cải tiến kỹ thuật, phát triển lực lượng sản xuất và phân hóa người sản xuất thành kẻ giàu người nghèo.

Sự phát triển của sản xuất hàng hoá dưới tác động của quy luật giá trị đã làm xuất hiện kiểu sản xuất hàng hoá tư bản chủ nghĩa với giai cấp tư sản dần dần hình thành.

  1. Tiền đề xã hội: Sau ba phát hiện của địa lý thế giới (Đường vòng ven biển châu Phi 1445-1490, tìm ra châu Mỹ 1492-1500, tìm ra đường vòng quanh thế giới 1519-1522), chủ nghĩa tư bản ra đời. Do nhu cầu trao đổi hàng hóa, xâm lược các “vùng đất mới” cùng hàng loạt những tiến bộ kỹ thuật hàng hải, khai mỏ, nấu quặng, chế tạo súng… làm cho sản xuất hàng hóa ở Tây Âu phát triển nhanh.

Quá trình tập trung sản xuất và tích lũy tư bản vào số ít người cùng quá trình biến người lao động thành người làm thuê suốt đời ngày càng tăng. Đặc biệt tích lũy nguyên thủy tư bản chủ nghĩa bằng bạo lực thúc đẩy chủ nghĩa tư bản ra đời nhanh chóng. Những biện pháp điển hình của tích nguyên thủy tư bản là tước đoạt những những người sản xuất nhỏ, nhất là nông dân, đuổi họ ra khỏi ruộng đất của minh, tăng thuế, cướp bóc thuộc địa, buôn bán nô lệ da đen…

Nông dân mất ruộng, thợ thủ công, thị dân phá sản… Bổ sung vào đội quân làm thuê ngày càng đông dẫn đến sự phát triển các công xưởng thủ công sản xuất hàng hóa.

Giai cấp tư sản gồm những nhà tư bản, sở hữu tư liệu sản xuất xã hội và sử dụng lao động làm thuê đang dần hình thành, mâu thuẫn gay gắt với địa chủ phong kiến.

Trong nội bộ quý tộc phong kiến có sự phân hóa thành quý tộc tư sản hóa. Giai cấp tư sản Tây Âu hình thành, dương cao ngọn cờ độc lập, lôi kéo nông dân chống chế độ phong kiến. Các cuộc khởi nghĩa chống phong kiến nổ ra liên tục và lan rộng ở nhiều nước Tây Âu.

Tiền đề về chính trị – tư tưởng: Từ thế kỷ XVI, các tiền đề tư tưởng ra đời chủ nghĩa tư bản hình thành. Một nền văn hóa mới của giai cấp tư sản đã xuất hiện, đối lập gay gắt với hệ tư tưởng văn hóa phong kiến. Đó là nền Văn Hóa Phục Hưng và phong trào cải cách tôn giáo. Thực chất đây là mặt trận tư tưởng của cuộc đấu tranh chống phong kiến của giai cấp tư sản.

Chế độ phong kiến Tây Âu đã chín muồi trong lòng nó những tiền đề hình thành chủ nghĩa tư bản. Châu Âu đang chuẩn bị bước vào thời kỳ cách mạng tư sản và xác lập chủ nghĩa tư bản. Các cuộc cách mạng ở Hà Lan (1579- 1609), cách mạng tư sản Anh (1640-1688), cách mạng tư sản Mỹ (1776-1781), cách mạng tư sản Pháp (1789-1794),… diễn ra dồn dập. Các cuộc cách mạng tư sản thành công cùng với cuộc cách mạng công nghiệp phát triển mạnh trong thế kỷ XVIII làm cho chủ nghĩa tư bản hình thành và nhanh chóng trở thành hệ thống thế giới.

  • Bản chất của chủ nghĩa tư bản

Chủ nghĩa tư bản chỉ có thể ra đời khi trong xã hội có một lớp người lao động tự do và không có tư liệu sản xuất. Mặt khác phải có số lớn tiền, của cải khá lớn trong tay một số người để lập ra xí nghiệp.

Tiền tệ là biểu hiện đầu tiên của tư bản, nhưng tiền chỉ chuyển hóa thành tư bản khi nó vận động theo công thức là: T-H-T’ (trong đó T’=T+At), tức là tiền ứng ra ban đầu, đưa vào sản xuất hàng hóa, qua trao đổi thu về số lượng tiền mới lớn hơn số tiền ứng ra ban đầu. Số tiền tăng thêm At, hay số tiền dư ra so với tiền ứng ra ban đầu gọi là giá trị thặng dư, ký hiệu là m, tức là tiền chỉ biến thành tư bản khi nó tạo ra giá trị thặng dư.

Như vậy, tiền ứng ra ban đầu trong quá trình vận động đã biến thành số tiền lớn hơn. Đó là quá trình chuyển hóa tiền tệ thành tư bản. T-H-T’ là công thức chung của tư bản. Vậy tư bản là giá trị mang lại giá trị thặng dư.

T lại có thể biến thành T’ vì trong sản xuất, nhà tư bản đã tìm được một loại hàng hóa đặc biệt là: khi sử dụng nó, nó có khả năng tạo ra giá trị mới, lớn hơn giá trị của bản thân nó. Đó là hàng hóa sức lao động. Sức lao động là năng lực lao động của con người. Nó gồm thể lực, trí lực, kỹ năng của người lao động được đem ra sử dụng trong lao động.

Sức lao động là yếu tố cơ bản của mọi quá trình sản xuất. Nó chỉ trở thành hàng hóa khi có hai điều kiện: Một là, người có sức lao động được tự do về thân thể, có quyền đem bán sức lao động như hàng hóa. Hai là, họ không có tư liệu sản xuất và của cải khác. Muốn sống, họ phải bán sức lao động.

Hàng hoá sức lao động cũng có hai thuộc tính là giá trị hàng hóa và giá trị sử dụng. Giá trị hàng hóa sức lao động được quyết định bởi lượng lao động xã hội cần thiết để sản xuất và tái sản xuất ra nó. Nó được xác định bằng toàn bộ giá trị của các tư liệu sinh họat cần thiết về vật chất và tinh thần để duy trì đời sống bình thường của công nhân và gia đình họ, cùng những chi phí đào tạo để họ có trình độ nhất định.

Giá trị sử dụng của hàng hóa sức lao động cũng nhằm thỏa mãn nhu cầu của người mua, song nó có khác với hàng hóa thông thường ở chỗ khi sử dụng nó sẽ có khả năng tạo ra một giá trị mới lớn hơn giá trị bản thân nó. Giá trị sử dụng của hàng hoá sức lao động chính là nguồn gốc của giá trị thặng dư. Nhà tư bản tiến hành quá trình sản xuất tư bản chủ nghĩa để tạo ra giá trị thăng dư.

  1. Giai đoạn tự do cạnh tranh của chủ nghĩa tư bản
    • Quá trình sản xuất tư bản chủ nghĩa

Quá trình sản xuất tư bản chủ nghĩa là sự thống nhất giữa quá lao động tạo ra giá trị sử dụng và quá trình sản xuất giá trị thặng dư. Nhà tư bản dùng tiền mua tư liệu sản xuất, sức lao động và tiến hành sản xuất. Quá trình sản xuất có đặc trưng là công nhân lao động dưới sự kiểm soát của nhà tư bản; sản phẩm làm ra thuộc sở hữu của nhà tư bản.

Giá trị thăng dư (thường ký hiệu là m) là phần giá trị dôi ra ngoài giá trị hàng hóa sức lao động do công nhân làm thuê tạo ra và bị nhà tư bản chiếm không. Bản chất của chủ nghĩa tư bản chính là quan hệ bóc lột của tư bản đối với công nhân làm thuê dưới hình thức giá trị thặng dư.

Có hai phương pháp sản xuất ra giá trị thặng dư là phương pháp sản xuất giá trị thặng dư tuyệt đối và phương pháp sản xuất giá trị thặng dư tương đối. Giá trị thặng dư tuyệt đối là giá trị thặng dư thu được do kéo dài ngày lao động quá giới hạn thời gian lao động cần thiết khi các điều kiện khác không đổi. Giá trị thặng dư tương đối là giá trị thặng dư thu được do rút ngắn thời gian lao động tất yếu trên cơ sở tăng năng xuất lao động xã hội.

Để sản xuất toàn bộ số tiền ứng ra ban đầu phải mua tư liệu sản xuất (tư bản bất biến) và sức lao động (tư bản khả biến). Tư bản bất biến (ký hiệu là c) là bộ phận tư bản tồn tại dưới hình thức là tư liệu sản xuất như nhà xưởng, máy móc, thiết bị, nguyên, nhiên liệu, vật liệu phụ… mà giá trị của nó được bảo tồn và chuyển nguyên vẹn vào sản phẩm.

Tư bản khả biến (ký hiệu là v) là bộ phận tư bản tồn tại dưới nhiều hình thức sức lao động. Trong quá trình sản xuất nó được tăng lên về lượng do giá trị sử dụng của hàng hóa sức lao động có đặc điểm khi được tiêu dùng thì nó tạo ra một lượng giá trị mới lớn hơn giá trị bản thân nó. Tư liệu sản xuất có vai trò quan trọng trong quá trình sản xuất, quyết định năng suất lao động của công nhân.

Giá trị hàng hóa = c + v + m

Sản xuất giá trị thặng dư là quy luật kinh tế cơ bản của chủ nghĩa tư bản. Quy luật giá trị thặng dư vạch rõ mục đích và phương tiện của nền sản xuất tư bản chủ nghĩa. Mục đích của sản xuất tư bản chủ nghĩa là sản xuất giá trị thặng dư ngày càng nhiều càng tốt. Phương tiện để đạt mục đích là cải tiến, phát triển khoa học kỹ thuật, tăng năng xuất lao động, mở rộng quy mô sản xuất, tăng cường độ lao động và kéo dài ngày lao động…

Quy luật giá trị thặng dư có tác động mạnh mẽ trong xã hội tư bản. Một mặt nó thúc đẩy cải tiến kỹ thuật, phát triển lực lượng sản xuất, tăng năng xuất lao động xã hội, xã hội hoá sản xuất tạo ra nhiều hàng hóa đa dạng phong phú… Mặt khác nó làm cho các mâu thuẫn vốn có của chủ nghĩa tư bản ngày càng gay gắt, mâu thuẫn giữa tính chất xã hội của sản xuất với sự chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất ngày càng tăng.

  • Tích lũy tư bản

Tích lũy tư bản là biến một phần giá trị thặng dư thành tư bản phụ thêm để mở rộng sản xuất. Tích lũy tư bản là tư bản hóa giá trị thặng dư. Nguồn gốc duy nhất của tích lũy tư bản là giá trị thặng dư. Như vậy, quy mô tích lũy phụ thuộc vào giá trị thặng dư và tỷ lệ phân chia khối lượng giá trị thặng dư thành quỹ tích lũy và quỹ tiêu dùng của nhà tư bản.

Nhà tư bản thường làm tăng quy mô khối lượng giá trị thặng dư bằng nhiều cách khác nhau. Đơn giản là cắt xén tiền công, tăng cường độ lao động kéo dài ngày lao động, tăng năng suất lao động… Tinh vi hơn là gián tiếp thông qua sự phát triển của khoa học và công nghệ và máy móc tụ động hóa để có sự chênh lệch ngày càng lớn giữa tư bản sử dụng, tư bản tiêu dùng, tư bản ứng trước với quy mô tư bản thu về.

Quy luật chung của tích lũy tư bản là quá trình tích lũy sự giàu có về số ít giai cấp tư sản và là quá trình số đông giai cấp công nhân bị áp bức, bóc lột sức lao động một cách tinh vi hơn. Đời sống nghèo khổ, thất nghiệp, bần cùng hóa, sự bất công tất yếu dẫn tới mâu thuẫn và đấu tranh của chủ nghĩa tư bản và công nhân ngày càng gay gắt, quyết liệt.

  • Đặc điểm cơ bản của chủ nghĩa tư bản tự do cạnh tranh

Thế kỷ XIX, chủ nghĩa tư bản phát triển tương đối hòa bình ở giai đoạn tự do cạnh tranh. Chủ nghĩa tư bản tự do cạnh tranh có các đặc điểm sau:

  • Toàn bộ các hoạt động kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường, các xí nghiệp có quy mô nhỏ, kỹ thuật chưa cao.
  • Giữa các nhà tư bản trong một ngành và giữa các ngành đều diễn ra sự cạnh tranh gay gắt, quyết liệt. Cạnh tranh giữ vai trò thống trị trong nền kinh tế
  • Quy luật kinh tế cơ bản của chủ nghĩa tư bản là quy luật giá trị thặng dư. Mục đích của tư bản là giá trị thặng dư.

Để thỏa mãn mục đích này, chủ nghĩa tư bản đã dùng mọi thủ đoạn như bóc lột lao động làm thuê, tăng cường độ lao động, mở rộng sản xuất… Quá trình đó cũng là quá trình làm gay gắt thêm mâu thuẫn cơ bản của chủ nghĩa tư bản, đó là mâu thuẫn giữa giai cấp tư sản và giai cấp vô sản.

  1. GIAI ĐOẠN ĐỘC QUYỀN CỦA CHỦ NGHĨA TƯ BẢN
  2. Bản chất của chủ nghĩa đế quốc
  • Những đặc điểm kinh tế cơ bản của chủ nghĩa tư bản độcquyền

Cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, chủ nghĩa tư bản phát triển sang giai đoạn độc quyền (chủ nghĩa đế quốc). Theo V. I. Lênin, chủ nghĩa tư bản độc quyền có 5 đặc điểm cơ bản.

  • Tập trung sản xuất và sự ra đời của các tổ chức độc quyền

Cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, do tác động mạnh mẽ của cuộc cách mạng khoa học-kỹ thuật làm cho lực lượng sản xuất phát triển mạnh mẽ và việc sử dụng chúng mang lại hiệu quả rất cao. Song chi phí đầu tư sản xuất cũng rất lớn, không một nhà tư bản nào có đủ vốn đáp ứng được nhu cầu đầu tư, nên họ buộc phải liên kết với nhau để tập trung vốn.

Do tác động của quy luật giá trị thặng dư và quy luật cạnh tranh đã thúc đẩy quá trình tích tụ và tập trung sản xuất, xuất hiện các xí nghiệp và công ty có quy mô rất lớn. Khủng hoảng kinh tế đã làm phá sản hàng loạt các nhà tư bản nhỏ đồng thời làm xuất hiện các xí nghiệp có quy mô cực lớn.

Việc xuất hiện những xí nghiệp khổng lồ đã tạo cơ sở vật chất cho bước chuyển từ tự do cạnh tranh sang độc quyền. Bởi vì, do xuất hiện các xí nghiệp có quy mô sản xuất lớn, cạnh tranh gay gắt hơn. Để tránh thiệt hại, các xí nghiệp có khuynh hướng thỏa hiệp với nhau tích tụ và tập trung sản xuất ở mức độ cao dẫn tới hình thành các tổ chức độc quyền.

Tổ chức độc quyền là sự liên minh giữa các nhà tư bản lớn nắm trong tay việc sản xuất hoặc tiêu thụ một hoặc một số loại hàng hóa nào đó nhằm thu được lợi nhuận độc quyền cao. Độc quyền sinh ra từ cạnh tranh nhưng không xóa bỏ được cạnh tranh, trái lại nó làm cho cạnh tranh thêm gay gắt.

  • Sự hình thành tập đoàn tư bản tài chính

Tư bản tài chính là sự dung hợp hay xâm nhập lẫn nhau giữa tổ chức độc quyền ngân hàng và tổ chức độc quyền sản xuất công nghiệp. Tư bản tài chính, với sức mạnh kinh tế của nó dần dần bao trùm toàn bộ nền kinh tế. Nó có vai trò rất lớn là thống trị, chi phối mọi mặt trong đời sống kinh tế, chính trị của xã hội tư bản cũng như trong các quan hệ kinh tế quốc tế.

Sự thống trị của các tập đoàn tư bản tài chính được thực hiện bằng nhiều hình thức như chế độ tham dự, lập công ty mới, phát hành trái phiếu… thống trị về kinh tế là cơ sở để thống trị về chính trị, xã hội, họ nắm bộ máy nhà nước, biến nó thành công cụ đắc lực cho mục đích của họ.

1.1.3. Xuất khẩu tư bản, đầu tư ra nước ngoài

Xuất khẩu tư bản là đưa tư bản đầu tư ra nước ngoài nhằm thu được lợi nhuận cao nhất. Đây là một trong những đặc điểm cơ bản của chủ nghĩa tư bản độc quyền. Xuất khẩu tư bản được thực hiện dưới hai hình thức chủ yếu là xây dựng ở nước ngoài những xí nghiệp mới hoặc mua lại những xí nghiệp đang hoạt động gọi là đầu tư trực tiếp. Hình thức khác là cho chính phủ hay tư nhân nước ngoài vay để thu lãi hay gọi là đầu tư gián tiếp.

Điều kiện của xuất khẩu tư bản là sự thống trị của các tổ chức độc quyền và địa vị độc quyền của một số ít những nước giàu có đã tích lũy được một khối lượng tư bản khổng lồ nhàn rỗi.

Mục đích xuất khẩu tư bản là nhằm thu lợi nhuận độc quyền cao. Vì vậy các nhà tư bản thường đầu tư tư bản vào những nước kém phát triển về kinh tế, vì ở đó thiếu tư bản, giá đất tương đối hạ, tiền lương thấp nguyên liệu rẻ…

Xuất khẩu tư bản có thể do tư bản tư nhân hoặc do nhà nước tiến hành. Xuất khẩu tư bản tư nhân là do các nhà tư bản thực hiện và thường đầu tư vào những ngành có tốc độ chu chuyển vốn nhanh, lãi xuất lớn.

Xuất khẩu tư bản nhà nước là nhà nước lấy ngân quỹ của nước mình đầu tư và nước nhập khẩu tư bản. Thông thường xuất khẩu nhà nước nhằm vào các lĩnh vực thuộc kết cấu hạ tầng để tạo điều kiện và môi trường cho tư bản tư nhân đầu tư.

Xuất khẩu tư bản Đểm lại cho tư bản tài chính một món lợi nhuận kếch sù trong việc khai thác tài nguyên thiên nhiên và trả công sức lao động rẻ ở các nước kém phát triển. Xuất khẩu tư bản còn tạo cơ sở kinh tế khách quan cho các tập đoàn tư bản tài chính phân chia thị trường thế giới.

1.1.4. Sự phân chia thị trường thế giới giữa các tổ chức độc quyền

Sau khi các tổ chức độc quyền phân chia xong thị trường trong nước, tất yếu sẽ mở rộng thị trường ra nước ngoài. Do cạnh tranh gay gắt để giành thị trường nên họ phải thỏa hiệp với nhau hình thành các tổ chức độc quyền quốc tế để phân chia thị trường và nguồn nhiên liệu. Sự hình thành các tổ chức độc quyền quốc tế đánh dấu sự tích tụ và tập trung tư bản ở giai đoạn cao hơn. Các tổ chức độc quyền quốc tế có ảnh hưởng lớn đến tình hình kinh tế và chính trị thế giới và đóng vai trò quan trọng trong việc đẩy nhanh qưá trình xã hội hóa sản xuất, làm cho lực lượng sản xuất phát triển.

Chính các tổ chức độc quyền là lực lượng chủ yếu đẩy chính phủ các nước đế quốc vào việc chuẩn bị chiến tranh và gây ra hai cuộc chiến tranh trên thế giới trong thế kỉ XX và ngày nay là sự xung đột, mâu thuẫn ở các khu vực trên thế giới.

1.1.5. Sự phân chia lãnh thổ thế giới giữa các cường quốc đế quốc

Do quy luật phát triển không đồng đều về kinh tế và chính trị nên một số nước đế quốc mạnh hơn đã muốn giành giật thị trường nước ngoài để loại trừ đối thủ cạnh tranh về tiêu thụ và cung cấp hàng hóa nguyên liệu, tìm nơi đầu tư. Các nước đế quốc đã đấu tranh với nhau để phân chia lại lãnh thổ thế giới. Điều đó có nghĩa là các nước đế quốc đi xâm chiếm, biến các nước khác thành thuộc địa của mình.

Quá trình phân chia lãnh thổ thế giới giữa các cường quốc đế quốc làm nổ hai cuộc chiến tranh thế giới và nhiều cuộc chiến tranh bộ phận, cục bộ khác trong thế kỷ XX. Mâu thuẫn cơ bản của chủ nghĩa tư bản ở giai đoạn đế quốc chủ nghĩa ngày càng trở nên gay gắt và quyết liệt tạo ra những tiền đề cần thiết cho cách mạng xã hội chủ nghĩa và phong trào giải phóng dân tộc phát triển.

  • Chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước

Chủ nghiã tư bản độc quyền nhà nước là sự kết hợp giữa các tổ chức độc quyền và bộ máy nhà nước thành cơ cấu thống nhất, trong đó nhà nước phụ thuộc vào các tổ chức độc quyền và can thiệp trực tiếp vào các quá trình kinh tế, nhằm đảm bảo lợi nhuận độc quyền cao, củng cố và mở rộng sự thống trị của tư bản tài chính, duy trì quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa.

Nguyên nhân xuất hiện chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước:

– Do tích tụ, tập trung tư bản và sản xuất ở mức độ cao, lực lượng sản xuất phát triển mạnh, mang tính xã hội hóa cao đòi hỏi phải có sự can thiệp của nhà nước. Do tác động mạnh mẽ của cách mạng khoa hoc công nghệ dẫn đến thay đổi lớn về cơ cấu và cơ chế kinh tế, nhiều ngành và lĩnh vực kinh tế mới xuất hiện. Do đó cần đầu tư vốn lớn, nên nhà nước phải can thiệp vào kinh tế.

  • Do các mâu thuẫn của chủ nghĩa đế quốc, nhất là việc hệ thống xã hội chủ nghĩa và phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc phát triển buộc các tổ chức độc quyền phải nắm nhà nước, biến nó thành công cụ phục vụ cho mình.

Chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước có các hình thức biểu hiện:

  • Nhà nước (trở thành chủ tư bản kinh doanh) thông qua việc xây dựng các doanh nghiệp trong những ngành mũi nhọn, then chốt, các cơ sở nghiên cứu, các lĩnh vực thuộc kết cấu hạ tầng… bằng vốn ngân sách của nhà nước nhằm phục vụ qưá trình sản xuất bình thường của xã hội.
  • Nhà nước can thiệp vào kinh tế như phát triển thị trường trong nước: bao mua hàng hoá cho các tổ chức độc quyền qua các đơn đặt hàng; can thiệp vào các quan hệ kinh tế quốc tế như: điều chỉnh ngoại thương, tiền tệ, tín dụng quốc tế, tạo điều kiện cho tư bản độc quyền đầu tư ra ngoài.
  • Nhà nước tư sản điều tiết vĩ mô nền kinh tế thông qua các chính sách và công cụ chính sách và chương trình hoá nền kinh tế nhằm tạo ra những cân đối vĩ mô và định hướng sự hoạt động kinh tế theo những mục tiêu đã định.
  • Nhà nước sử dụng nguồn tài chính của mình để phân phối lại thu nhập quốc dân, đầu tư vào những lĩnh vực cần thiết của nền kinh tế như phát triển kết cấu hạ tầng, các cơ sở nghiên cứu khoa học, bình ổn thị trường đảm bảo việc tiêu thụ hàng hoá có lợi cho các tổ chức độc quyền…
  • Nhà nước sử dụng hệ thống tiền tệ – tín dụng như một công cụ đắc lực cho việc điều tiết vĩ mô nền kinh tế; sử dụng hệ thống luật pháp và bộ máy nhà nước để điều tiết nền kinh tế nhằm bảo vệ lợi ích cho các tổ chức độc quyền.

Chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước ở những mức độ nhất định có thể tạm thời làm dịu bớt sự gay gắt của xung đột, các mâu thuẫn của chủ nghĩa tư bản nhưng không xoá được các mâu thuẫn, về lâu dài, nó có thể làm cho các mâu thuẫn nội tại của chủ nghĩa nội tại của chủ nghĩa tư bản phát triển sâu sắc hơn.

  1. Vai trò lịch sử của chủ nghĩa tư bản
  • Chủ nghĩa tư bản đã tạo ra những nhân tố thúc đẩy sự phát triển kinh tế

Chủ nghĩa tư bản ra đời là bước phát triển hợp quy luật, bước tiến so với chế độ phong kiến, mở đường cho lực lượng sản xuất phát triển. Trong quá trình phát triển nếu chưa xét đến những hậu quả nghiêm trọng gây ra đối với loài người thì chủ nghĩa tư bản đã tạo ra những nhân tố mới, có vai trò tích cực nhất định đối với sản xuất. Đó là:

Trong thế kỷ XIX, chủ nghĩa tư bản đã tạo ra khối lượng hàng hoá khổng lồ, nhiều hơn tất cả các chế độ trước cộng lại. Nó tạo ra sự biến đổi cơ cấu giai cấp-xã hội, sự phát triển của hai giai cấp tư sản và vô sản.

Thực hiện xã hội hoá sản xuất. Trong chủ nghĩa tư bản, quá trình xã hội hoá sản xuất đã đạt được một bước tiến lớn, tới trình độ rất cao, ngày càng phát triển cả về chiều rộng và chiều sâu.

Phát triển lực lượng sản xuất, tăng năng suất lao động xã hội. Dưới tác động của quy luật giá trị thặng dư và quy luật cạnh tranh cùng các quy luật kinh tế khác của cơ chế thị trường, giai cấp tư sản đã tăng cường bóc lột, làm giàu nhanh chóng. Quá trình đó tác động mạnh mẽ, thúc đẩy sự phát triển của lực lượng sản xuất, sử dụng sự tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất, tăng năng suất lao động xã hội, thúc đẩy nền sản xuất tư bản chủ nghĩa phát triển mạnh mẽ.

Chuyển sản xuất nhỏ thành sản xuất lớn hiện đại. Quá trình phát triển của chủ nghĩa tư bản đã làm cho lực lượng sản xuất phát triển nhanh chóng từ sản xuất thủ công lên sản xuất cơ khí lớn đến tự động hoá, tin học hoá và công nghệ hiện đại như hiện nay. Đó là quá trình tạo ra công cụ lao động mới, cơ cấu kinh tế mới, cơ chế quản lý mới… Như vậy chủ nghĩa tư bản đã chuyển sản xuất nhỏ thành sản xuất lớn hiện đại.

  • Chủ nghĩa tư bản đã gây ra những hậu quả nặng nề cho nhân loại

Chủ nghĩa tư bản là thủ phạm chính gây ra hai cuộc chiến tranh thế giới đẫm máu trong thế kỷ XX và sự chạy đua “vũ trang và nạn ô nhiễm môi trường, của ách áp bức và nô dịch các dân tộc thuộc địa. Chủ nghĩa tư bản góp phần trầm trọng thêm nạn nghèo đói, bệnh tật của hàng trăm triệu người, nhất là ở những nước chậm phát triển.

Chủ nghĩa tư bản ra đời thể hiện rõ tính bóc lột dã man của giai cấp tư sản ngay từ khi nó mới ra đời. Với các biện pháp tích luỹ ban đầu tàn bạo, xâm lược thuộc địa, buôn bán nô lệ là nguyên nhân cơ bản nảy sinh những cuộc đấu tranh đầu tiên và mạnh mẽ sau này của quần chúng lao động chống lại giai cấp tư sản.

Sự phát triển của quá trình xã hội hoá đã tạo ra những tiền đề vật chất đầy đủ cho cách mạng vô sản, ra đời của xã hội mới cao hơn.

Đảng ta khẳng định, con đường đi lên của nước ta sự phát triển quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, tức là bỏ qua việc xác lập vị trí thống trị của quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng tư bản chủ nghĩa, nhưng tiếp thu, kế thừa những thành tựu mà nhân loại đã đạt được dưới chế độ tư bản chủ nghĩa, đặc biệt về khoa học-công nghệ để phát triển nhanh lực lượng sản xuất, xây dựng nền kinh tế hiện đại./.